
Nguồn cội của IBM thực sự đã ra đời từ trước năm 1911. Vào ngày 16/6/1911, công ty Computing-Tabulating-Recording (CTR) được thành lập với sự hợp nhất của công ty Tabulating Machine Company (thành lập từ những năm 1880), Time Recording Company (thành lập từ năm 1900) và Computing Scale Corporation (thành lập từ năm 1901). CTR có 1.300 nhân viên và bức hình này được chụp tại trụ sở ở NewYork, Mỹ. Đến năm 1915, hãng đá có doanh thu 4 triệu USD và gần 1.700 nhân viên.

Công ty chủ chốt đứng đằng sau sự thành lập của IBM là Tabulating Machine Company, phát minh ra thẻ dữ liệu đục lỗ. Punch Card Sets Standard lần đầu tiên được CRT tung ra vào năm 1923 và tạo ra một bước tiến tốc độ mới về độ chính xác trong cơ khí. Cuối những năm 1920, IBM còn giới thiệu loại thẻ 80 cột dữ liệu với mật độ lưu trữ cao hơn. Cụm từ "IBM Card" đã trở thành một tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp sau này.

Thẻ Punch là một trong những phát minh lớn nhất của IBM. Loại thẻ cơ khí này có thể lưu trữ tất cả các dữ liệu đến một nhân viên hay khách hàng cụ thể. Loại máy mà IBM sản xuất những năm 1920 có thể làm được 460 thẻ mỗi phút. Tuy nhiên, IBM đã phải từ bỏ nhiều khả năng của máy này vào năm 1956 như một phần của nghị định chống độc quyền từ Sở Tư Pháp. Mặc dù vậy, Giám đốc công ty vào thời gian này, Tom Watson Jr, cho biết công nghệ lưu trữ sẽ sớm vượt qua thẻ punch.

Thiết bị ban đầu được sản xuất bởi Computing Scale Corp nhằm xây dựng giá cả cho một đơn gị thực phẩm theo phương thức cân. Sau đó phát minh này đã bán cho nhà máy Hobart Manufacturing năm 1933.

Máy tính thời gian (chấm công) cho nhân viên vào những năm 1930. Loại máy này có ba kích thước cho công ty với số lượng 50, 100 hoặc 150 nhân viên. Phát minh này sau đó đã được bán vào năm 1958.

Loại thẻ dùng để ghi lại dữ liệu nhân viên của IBM. Người dùng có thể đọc và đánh số các dữ liệu thông tin vào bên trái thẻ sau đó máy sẽ đọc thông tin này và tạo thành các dữ liệu dạng chấm lỗ bên phía tay phải.

IBM Bows Type 405 Alphabetic Accounting Machine được giới thiệu vào năm 1934. Loại máy này có thể thực hiện các phép tính, báo cáo và in biên soạt từ các loại thẻ đục lỗ. Đây là loại máy hàng đầu thế giới của IBM và thống trị trên thị trường từ những năm 1930 đến giữa những năm 1950.

IBM giúp Mỹ thực hiện kế hoặch an sinh xã hội (Social Security Act). Đạo luật năm 1935 này đặt ra một thách thức về việc tính toán số liệuh rất lớn. Với sự giúp đỡ từ thẻ đục lỗ và máy tính toán của IBM. Mỹ đã có thể thực hiện được tới 600.000 quá trình tính toán lợi ích mỗi ngày cho 26 triệu công dân.

Máy tính Selective Sequence Electronic Calculator được IBM giới thiệu năm 1948 tự hào với tốc độ tính, bộ nhớ, lập trình vượt trội.

Máy tính SAGE được cung cấp cho Không quân Mỹ và hoạt động từ năm 1962 đến những năm 1980. Loại máy này được sử dụng trong việc phòng không của quân đội.

Hãng hàng không Mỹ, American Airlines, lần đầu tiên giới thiệu hệ thống đặt chỗ trước trên máy tính IBM 7090 là American Airlines Sabre vào năm 1962. Hệ thống làm việc dựa trên dữ liệu qua đường dây điện thoại theo "thời gian thực".

Máy tính IBM System/360, một quyết định sản xuất mà Watson Junior (trong hình) cho là "nhiều rủi ro nhất" trong cuộc đời ông đã trở thành một trong những niềm kiêu hãng lớn nhất của IBM. System/360 là mẫu máy tính thương mại đầu tiên và thành công nhất mọi thời đại với cấu trúc 32 bít, cấu trúc đi đầu và phải 21 năm sau đó mới phổ biến trên thị trường. Sự ra đợi của mẫu máy tính này đã giúp IBM lên ngôi vương ở thị trường máy tính thương mại hàng thập kỷ. System/360 có kích thước bằng một căn phòng lớn và cần một hệ thống điều hòa không khí tốt giúp làm mát.

IBM có doanh thu tới 1,8 tỷ USD và 104.000 nhân viên trong năm 1960. Nhưng chỉ đúng 10 năm sau, với sự thành công của System 360, hãng đã có mức tăng trưởng ngoài sức tưởng tượng lên con số doanh thu là 7,5 tỷ USD và 269.000 nhân viên. Tuy nhiên, sự thành công quá lớn đó đã khiến IBM lao đao với hàng loạt vụ khiếu nại chống độc quyền của Sở Tư pháp Mỹ từ những năm 1969. Trận chiến pháp lý của IBM với chính quyền đã kéo dài suốt 13 năm đến 1982 và cuối cùng cũng thu về được những kết quả có lợi.

IBM đã bị HP và một số hãng khác vượt mặt khi tuyên bố có máy tính cá nhân đầu tiên. Thế nhưng, mẫu máy tính di động hay đúng hơn là "vác tay" đầu tiên của IBM vẫn rất đáng chú ý là 5100 với cân nặng tới 50kg và giá từ 9.000 USD đến 20.000 USD tùy thuộc vào bộ nhớ từ 16K đến 64K và tùy chọn ổ mềm lưu trữ 8 inch.

Apple là nhà sản xuất hàng loạt máy tính cá nhân vào năm 1977 nhưng nó lại là tiền đề cho dòng máy tính ra mắt sau của IBM đạt được những thành công đáng kể hơn vào năm 1981. IBM PC có giá từ 1.600 đến 4.500 USD cho tùy chọn bộ nhớ từ 16K đến 256K.

Đến năm 1933, những thành công rực rỡ của IBM gần như đã hoàn toàn tàn lụi. Và Lou Gerstner dường như trở thành đấng cứu thế cho hãng khi được mời về làm giám đốc điều hành mới. Một trong những ngày đầu tiên của ông tại IBM là cắt giảm hàng hàng chục nghìn nhân viên. Tiếp đến là một sự hồi sinh được dẫn dắt bởi việc đầu tư nhiều hơn vào phần mềm và các dịch vụ trong những năm gần đây hơn là chỉ phát triển phần cứng.

Sự kết thúc của kỷ nguyên máy tính cá nhân IBM vào năm 2005 khi hãng chính thức bán thương hiệu máy tính doanh nhân hàng đầu thế giới, ThinkPad cho Lenovo. Kể từ đây, hãng chính thức chuyên tâm hơn vào việc phát triển phần mềm, quản lý thông tin, kinh doanh thông minh hay phân tích với hàng loạt các vụ mua lại FileNet, Cognos, SPSS, ILOG và Netezza. Các thương vụ đầu tư này tốn kém khoảng 10 tỷ USD.